Cái máy như một chiếc tàu nhỏ chạy dọc con kênh. “Tàu”chạy đến đâu là dòng kênh sạch đến đấy, tất cả lục bình, rong rêu, rác rến đều được nó “ngoạm” vào…
Đó là chiếc máy cắt rong, cỏ dại, vớt bèo tây (lục bình), rác nổi của Trung tâm Nghiên cứu và phát triển công nghệ – máy công nghiệp (R&D Tech) thuộc trường ĐH Công nghiệp TPHCM. Nhiều đại biểu chứng kiến buổi trình diễn vừa qua tại kênh Tây thuộc hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh) đã công nhận ưu điểm vượt bật của chiếc máy này.
Từ những dòng sông… đen
“Biết mình “mê” nghiên cứu, chế tạo máy công nghiệp nên bạn bè hay rủ đi chơi đây đó, thường nhất là đến những chỗ “có vấn đề” như kênh Nhiêu Lộc, kênh Đông… Có lần thấy nhiều người chèo thuyền để vớt rác và rong rêu, mình nghĩ, dùng cây câu liêm khời khời trên mặt nước thì không thể trị tận gốc những loài thủy sinh như lục bình, cỏ dại… Vậy là trong đầu nung nấu phải làm ra một cái máy vừa vớt được rác nổi lẫn cắt được rong, cỏ dại…”, Th.S Bùi Trung Thành, chủ nhiệm đề tài “nghiên cứu thiết kế, chế tạo hệ thống máy, thiết bị cắt rong, cỏ dại, vớt bèo tây, rác thải nổi trong lòng kênh, mương, hồ chứa nước”, bộc bạch nguyên do “thai nghén” đề tài.
Máy đang cắt và vớt bèo tây, rong trên kênh Tây hồ Dầu Tiếng
Chia sẻ ý tưởng và được các đồng sự ủng hộ, từ năm 2002, Th.S Bùi Trung Thành bắt tay vào nghiên cứu thiết kế máy.
Khó khăn đầu tiên là thông tin quá ít vì ở Việt Nam chưa có loại máy này, phần lớn là máy bán thủ công chỉ làm được 1 chức năng hoặc cắt hoặc vớt chất thải, chưa có máy 2 trong 1. Nước Mỹ là thị trường sử dụng nhiều máy dạng này nhưng lại không có thông tin chi tiết về kỹ thuật sản xuất.
Dò tìm tại các trung tâm nghiên cứu các nước, anh phát hiện Canada chuyên sản xuất loại máy này.
Anh bắt đầu học kỹ thuật chế tạo và kinh nghiệm sản xuất nhưng không “bê nguyên xi” mà “phải chuyển đổi cho phù hợp với đặc điểm môi trường và địa hình những con sông nhỏ, chằng chịt cầu cống của nước mình”, Th.S Thành cho biết.
Sau khi nghiên cứu và thiết kế chi tiết từng bộ phận và tìm ra nguyên lý hoạt động cho máy, nhóm tác giả bắt đầu giai đoạn “thuyết phục” hội đồng khoa học cấp nhà nước của Bộ Khoa học – Công nghệ và được xét duyệt đề tài vào cuối năm 2006.
Nhóm tác giả gặp không ít khó khăn khi chuyển từ thiết kế và tính toán trên giấy thành sản phẩm thực tế. Những đợt trượt giá khiến chi phí cho vật tư, máy móc tăng cao, tác giả phải tiết kiệm đến từng chi tiết, “chỗ nào sai sót, hỏng hóc nhẹ đều không dám bỏ, ráng lấy lại dùng tiếp. Nghiên cứu công nghệ mà tiết kiệm quá thì tác giả rất vất vả”, một kỹ sư cho biết.
Lợi ích “2 trong 1”
Sau 2 năm nghiên cứu và chế tạo, nhóm tác giả gồm 9 thành viên và hàng chục kỹ sư, sinh viên tham gia đã hoàn thành chiếc máy gồm 2 chức năng cắt và vớt thủy sinh, rác nổi trên nước. Máy di chuyển theo nguyên lý vận hành thủy lực như một chiếc tàu, và hoạt động giống… cá, “ăn” các loại rong rêu, rác thải trước mặt.
Để “ăn” được thì “cá” phải có “răng”. Vậy là “răng” của chiếc máy được cách điệu từ những chiếc dao cắt lúa của nông dân, nhiều chiếc dao được lắp ghép thành 2 thanh đứng trước đầu máy có thể điều chỉnh độ sâu từ 1,5-2m để cắt rong và rộng 2m.
Máy có chiều dài 12m, rộng 3m, cao 2,4m có thể chứa 2 tấn rác, rong. Sau khi chứa đầy buồng chứa có thể tích 8m3, máy sẽ di chuyển vào bờ thực hiện thoát thải. Hệ thống máy gồm 3 bộ phận: máy cắt chính, 1 bồn chứa thoát thải và 1 rơ-moóc vận chuyển.
Theo nhiều chuyên gia, chiếc máy này đã giúp tiết kiệm được sức người trong xử lý làm sạch môi trường nước, kéo theo lợi ích tiết kiệm được chi phí thuê mướn nhân công làm những công việc này.
GS.TS Lê Huy Bá, Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và quản lý môi trường, nhận xét: “Máy cắt, vớt cỏ dại, bèo tây này có tác dụng làm sạch, thông thoáng môi trường nước giúp thuận lợi giao thông đường thủy, đồng thời cơ giới hóa thay thế sức người. Tôi đánh giá cao công trình đầu tiên này”.
Tuy nhiên, so với máy của nước ngoài sản xuất thì chiếc máy này vẫn còn cồng kềnh và nặng hơn nếu cùng công suất, đồng thời vẫn chưa có thiết bị thay thế nếu như máy có sự cố. Theo TS Trần Doãn Sơn, Trường ĐH Bách khoa TPHCM, để đưa máy vào ứng dụng đại trà thì cần cải tiến về năng suất, tối ưu thêm về kiểu dáng và đa dạng hơn kích cỡ để khách hàng lựa chọn phù hợp với địa hình sông rạch ở từng nơi…
TIÊU HÀ – KIÊN GIANG – SGGP online
Không chỉ lợi ích về kỹ thuật, công trình còn mang lợi ích lớn về kinh tế. Hàng năm, riêng tại TPHCM phải chi gần 100 tỷ đồng cho công việc vớt bèo, rác thải trên các kênh rạch. Ông Lê Thành Công, Giám đốc Công ty Khai thác công trình thủy lợi tỉnh Tây Ninh tính toán: “Mỗi năm, riêng 2 kênh Đông và Tây thuộc hồ Dầu Tiếng đã ngốn hơn 500 triệu đồng cho thuê mướn nhân công vớt rau bèo. Tính thêm sông Vàm Cỏ Đông và các kênh rạch khác, ngân sách tỉnh phải chi hơn 2 tỷ đồng để thuê mướn 120 nhân công làm việc này 8 lần/năm. Chưa kể mỗi lần tiến hành đều phải hạ mực nước xuống thấp, kéo theo hệ lụy là thiếu nước cung cấp cho người dân tưới tiêu, sinh hoạt. Trong khi chiếc máy chỉ cần tốn 2 nhân công là có thể làm tốt mà vẫn đảm bảo nước cung cấp. Nếu máy có giá vừa phải và giải quyết bài toán kinh tế, công ty sẽ mua để sử dụng”. Vì chưa sản xuất công nghiệp nên máy chưa có giá cố định, còn phụ thuộc vào giá vật tư sản xuất. Tác giả đề tài cho biết, với thời giá hiện tại thì mỗi chiếc máy có giả khoảng 1,2 đến 1,3 tỷ đồng, vẫn rẻ hơn rất nhiều so với máy có cùng năng suất 0,2-0,24ha/giờ của nước ngoài giá 120-150 ngàn USD. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét